7/16/2012

Giới thiệu về Lan Cymbidium (Địa Lan / lan Kiếm ?) và hình ảnh của nó

Giới thiệu về Lan Cymbidium (Địa Lan / lan Kiếm ?) và hình ảnh của nó

ảnh đẹp của địa lan kiếm Cymbidium :

 
















  • A close up look at the center of a Cymbidium Hybrid Orchid. / Nhìn cận ảnh tâm của một lan Cymbidium lai


    Cymbidium Hybrid / lai


    Cymbidium


    Orchids macro / Ảnh macro hoa lan
























  • cymbidium
    cymbidium


    Orchid / Hoa lan








 















  • Orchid / Hoa lan








 

 
















  • Cymbidium Orchid / lan - Sugar orchid / lan ngọt ngào








 














  •  

     

    Chinese Cymbidium / Cymbidium TQ.
    Dreams Delight / Niềm vui những giấc mơ


    Delicate Orchid / Lan tinh tế (Cymbidium)


    Cymbidium orchids / Lan


    In Memoriam / Tưởng nhớ











 

 

 

Giới thiệu lan Cymbidium (Địa Lan / Kiếm ?)

Về hình thái bên ngoài, lan Cymbidium là những loài thân thảo, đa niên, đẻ nhánh hàng năm tạo thành những bụi nhỏ.

Có loài rễ mọc bám trên vỏ cây, mặt đất (bì sinh hay phụ sinh); có loài rễ ăn sâu trong bọng cây, trong đất mùn (địa sinh hay thực sinh). Rễ mới thường chỉ mọc ở cây con, cây mẹ khó ra rễ mới mà chỉ thấy phân nhánh từ củ rễ.

Thân ngầm của chúng (căn hành) thường ngắn, nối những củ lan với nhau. Các củ lan thực chất là những cành ngắn của căn hành. Củ già, khi bị tách khỏi căn hành cũ, có thể mọc ra đoạn căn hành mới, từ đó mọc lên những cây con. Do đó người ta xếp Cymbidium vào nhóm lan đa thân (sympodial).

Củ lan (giả hành) thường có dạng con quay hay dạng hột xoài, đường kính từ 1 cm đến 15 cm, củ thường tươi và được bọc trong các bẹ lá.

Lá thường có hai dạng: dạng vảy đính theo một đoạn căn hành và dạng thực đính trên giả hành. Lá thực thường có cuống lá, giữa bẹ lá và cuống lá có một tầng phân cách. Khi phiến lá rụng, vẫn còn đoạn bẹ ôm lấy giả hành. Vài loài không có cuống lá.

Tùy theo từng loài mà phiến lá rất khác nhau, có gân dọc nổi rõ hay chìm trong thịt lá. Một số loài ít chịu rợp có phiến lá màu xanh vàng, còn lại thường là xanh đậm. Bản lá và độ dày của lá thay đổi tùy theo từng loài: các loài sống ở trảng trống có lá hẹp và dày hơn các loài ưa bóng rợp. Lá có dạng dải, dạng mũi mác, dạng phiến. Đầu lá nhọn hay chia thành 2 thùy. Kích thước của bản lá biến động từ 0,5 cm đến 6 cm. Chiều dài lá thay đổi từ 10 cm đến 150 cm.

Chồi hoa thường xuất hiện bên dưới giả hành, trong các nách lá, tách các bẹ già, đâm ra bên ngoài. Thông thường, mỗi giả hành chỉ cho hoa một lần. Chồi hoa thường xuất hiện đồng thời với chồi thân, những chồi hoa no tròn hơn, còn chồi thân hơi dẹp. Các lá đầu tiên ở chồi thân mọc đâm ra 2 phía hình đuôi cá, còn ở chồi hoa các lá bao hoa luôn ôm chặt quanh phát hoa.

Chồi hoa và chồi thân phát triển đồng thời

a/ Chồi hoa

b/ Chồi thân

Cọng phát hoa không phân nhánh, dựng đứng hay buông thõng. Chiều dài của phát hoa từ 10 đến hơn 100 cm. Cành hoa mang từ vài đến vài chục búp hoa xếp luôn phiên theo đường xoắn ốc. Búp hoa khi đã đủ lớn, bắt đầu dang xa khỏi cọng hoa, xoay nửa vòng tròn để đưa cánh môi xuống dưới rồi bắt đầu nở. Thoạt nhìn, hoa Cymbidium có 5 cánhgần giống nhau, thực ra chỉ có 2 cánh hoa ở bên trong, còn lại là 3 lá đài ở bên ngoài, có cấu trúc và màu sắc giống cánh hoa. Cánh hoa thứ 3 chuyên hóa thành cánh môi, màu sắc rực rỡ hơn, xẻ thành 3 thùy tạo ra dạng nửa hình ống. 2 thùy bên ôm lấy trụ, thùy thứ 3 có dạng bầu hay nhọn tạo thành hình đáy thuyền, làm chỗ đậu cho côn trùng khi đến hút mật và thụ phấn cho hoa. Giữa cánh môi có 2 gờ dọc song song màu vàng. Tận cùng bên trong có dĩa mật và đôi khi có những tuyến tiết mùi hương.

Hình thái ngoài và cấu trúc hoa Cymbidium

Hoa Cymbidium lưỡng tính, nhị đực và nhụy cái cùng gắn chung trên một trụ nhị - nhụy (hay trục hợpnhụy) hình bán trụ hơi cong về phía trước. Nhị ở trên cùng, mang 2 khối phấn màu vàng, có gót dính như keo. Khối phấn được đậy bởi một nắp màu trắng ngà dễ mở rời. Hộc chứa phấn khối của trục hợp nhụy cách với nuốm nhụy bởi một cái gờ (mỏ) nổi lên. Cấu trúc này bắt buộc trong tự nhiên hoa Cymbidium chỉ thụ phấn được nhờ côn trùng.

Sau khi thụ phấn, hoa xoay dần về vị trí cũ, bầu noãn phình lên tạo thành quả. Quả lan là một nang có 3 góc, bên trong có chứa hàng trăm ngàn hạt. Khi chín, quả mở theo 3 đường góc và gieo vào không khí những hạt như bụi phấn màu vàng lụa. Khi rơi vào nơi có điều kiện ẩm độ, ánh sáng thích hợp và có nấm cộng sinh tham gia, hạt sẽ nẩy mầm phát triển thành cây mới...

LỊCH SỬ TẠO GIỐNG

Số lượng giống lai tự nhiên - đã được thu thập - rất phong phú. Con lai tự nhiên có thể là kết quả của 2 loài giao phấn với nhau hoặc của các dòng trong cùng một loài giao phấn nhờ côn trùng. Điều kiện để một phép lai có thể xảy ra trong tự nhiên là 2 cá thể phải giống nhau về mùa hoa, cùng khu phân bố và cùng kích thước hoa. Điển hình nhất là cây lai Hồng Hoàng, con lai tự nhiên giữa cây Hồng lan (Cym. insigne) và cây Hoàng lan (Cym. giganteum). Bản thân nhóm Hồng Hoàng có rất nhiều dạng khác nhau về màu sắc cánh hoa và sắc tố đỏ trên cánh môi. Tuy nhiên, phải nhờ đến bàn tay con người, những phép lai giữa các loài rất cách biệt nhau mới có thể thực hiện. Việc tạo giống Cymbidium phát triển theo tiến trình thu thập giống hoang dại, nhờ có sự hỗ trợ của những tiến bộ sinh học, đã đạt được những kết quả không ngờ.

Khoảng đầu thế kỷ này, một số lan rừng đã được thu thập từ các vùng rừng nhiệt đới đưa về trồng ở châu Âu. Từ những giống hoang dại đó, những phép lai đã được thực hiện. Mục tiêu của những phép lai này là tạo được những giống có đặc tính kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao như hoa nhiều, lớn, bền, màu sắc sặc sỡ. Đó cũng chính là lý do tại sao Cymbidium không phải là cây nguyên sản ở châu Âu nhưng các giống lai được nuôi trồng để cắt cành ở đây lại có số lượng rất lớn so với các châu lục khác.

Cây Cymbidium lai đầu tiên xuất hiện năm 1889 là cây Cym. eburneolowianum (Cym. eburneum x Cym.lowianum). Trong 20 năm tiếp theo, chỉ xuất hiện thêm 14 con lai nữa nhưng chúng không có giá trị cao lắm. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, người ta tìm thấy ở Miến Điện và Đông Dương nhiều loài giá trị, nhất làCym. Parishii, Cym. insigne, Cym. erythrostylum (Bạch hồng) có màu sắc từ trắng đến hồng, chúng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các con lai đẹp sau này.

Cym. hookerianum và Cym. lowianum đã được dùng để tạo ra những giống hoa màu xanh. Cym. eburneum (Bạch lan) và Cym. insigne (Hồng lan) đã cho ra các giống màu trắng và màu hồng. Cym. traceyanum cho ra các giống màu vàng. Cym. ansonii cho ra những giống màu đỏ và màu hồng. Cym. Parishiiđược dùng để tạo ra những giống có cánh môi đỏ thắm như Cymbidium Miretta.

Những công trình lai tạo, chọn giống Cymbidium vào đầu thế kỷ này đáng kể nhất là của H. G. Alexander, đã cho ra đời cây lai Cym. Alexanderi Westonbirt (Cym. eburneolowianum x Cym. insigne). Cây này cho đến nay vẫn giữ một vị trí quan trọng trong việc tạo ra các giống mới màu trắng, hồng, vàng, xanh, nhất là những giống ra hoa vào mùa thu và mùa đông. Cùng thời gian này, còn có cây lai Cym. pauwelsii (Cym. insigne x Cym. lowianum), là cây đầu dòng để tạo ra những giống có phát hoa lớn và sức phát triển mạnh như Cym. Babylon (Cym. Olympus x Cym. Pauwelsii). Đến lượt mình, Cym. Babylon lại là cây đầu dòng thông dụng để tạo ra những giống mới có màu sắc rực rỡ.

Những năm gần đây có khuynh hướng tạo ra những giống Cymbidium có màu sắc tinh khiết, không có sắc tố đỏ cả trên cánh môi. Do đó, sẽ có những giống chỉ có màu vàng, xanh hay trắng. Phương pháp để đạt kết quả này là hồi giao nhiều lần với Cym. lowianum var. Concolor (Thanh ngọc). Một hướng lai tạo khác không kém lý thú là tạo ra những giống với nhiều màu sắc rực rỡ phối hợp với nhau: màu 2 cánh hoa và cánh môi khác với màu của 3 lá đài, hoặc cánh hoa có nhiều màu tạo thành các đốm khảm. Về hình dạng hoa thì ngày càng có những giống lai mới có cánh hoa và lá đài tròn , hoa kín và tròn. Hoa nhiều trên một cành và độ bền của hoa cắt cành cũng là những đặc điểm được quan tâm khi chọn tạo giống.

Một nhóm Cymbidium khác có kích thước thân, lá, hoa nhỏ hơn, gọi chung là Cymbidium miniature, cũng được lai tạo ra và chiếm một vị trí đáng kể cạnh nhóm hoa lớn, do chúng thích hợp với điều kiện nhà ở ngày càng chật hẹp hiện nay. Những cây đầu dòng để tạo giống trong nhóm này có thể kể Cym. Devonianum (Gấm ngũ hồ); Cym. ensifolium (Mặc lan); Cym. Pumilum và Cym. tigrinum. Cym. Devonianum cho ra những giống có cành hoa buông thõng, màu xanh, vàng và nâu, cánh môi có bệt đỏ đậm; Cym. ensifolium được khai thác ở 2 đặc tính di truyền là mùa hoa (cuối hè và thu) và hương thơm. Cym. tigrinum cho ra những con lai nở hoa mùa xuân, cây thấp lùn, lá ngắn, giả hành nhỏ, hoa màu xanh đến vàng. Nhưng đáng kể nhất vẫn là Cym. Pumilumđã cho ra nhiều giống miniature màu sắc phong phú. Ưư điểm của nhóm hoa nhỏ này là yêu cầu không khắt khe lắm về nhiệt độ thấp để phân hóa hoa nên có thể nuôi trồng rộng rãi hơn ở nước ta.

Giữa những nhóm hoa lớn và hoa nhỏ cũng đã có những phép lai, tạo ra những giống Cymbidium kết hợp được đặc điểm của cả 2 nhóm: hoa lớn trung bình, số lượng hoa trên một cánh nhiều, dễ trồng trọt và năng suất hoa cao.

Việc lai tạo giống không ngừng lại ở việc thụ phấn, gieo hạt đơn giản mà còn dùng đến những kỹ thuật sinh học hiện đại để tạo ra nhiều giống đa bội... Cymbidium cũng là chi đầu tiên của hoa lan được áp dụng thành công phương pháp cấy đỉnh sinh trưởng và nhân giống vô tính hàng loạt trong ống nghiệm để có số lượng cây giống lớn, đồng nhất và sạch bệnh trong một thời gian tương đối ngắn.

Do đó, muốn phát triển việc nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn hoặc để tạo ra những giống mới, cần thiết phải có một phòng thí nghiệm với đầy đủ hóa chất, thiết bị nhân cấy cây trong ống nghiệm. Đây là một bộ phận không thể thiếu được của bất kỳ cơ sở trồng lan nào trên thế giới.

CYMBIDIUM TỰ NHIÊN

Theo những kết quả điều tra định loại trước đây chi Cymbidium trong cả nước ta có khoảng 12 loài. Về mặt hình thái, có thể nói tất cả những loài này đã và đang được nuôi trồng tại Đà Lạt. Qua việc khảo sát trong tự nhiên, các loài này đều có khu phân bố với những qui luật chi phối đặc trưng, có số lượng cá thể khá lớn. Từng loài có các yếu tố cách ly rõ rệt với loài khác. Từ những khác biệt về cách sống, mùa hoa, màu sắc... cho đến những khác biệt về cơ quan sinh sản... đã giúp cho việc hình thành và ổn định các loài Cymbidium tự nhiên trên các vùng rừng núi Lâm Đồng - Đà Lạt.

Có những cá thể hay dòng vô tính của một hay một số biến chủng nào đó trong tự nhiên đã được sưu tập nuôi giữ, nhưng chưa có thể xem xét chúng nằm ở bậc phân loại nào trong hệ thống phân loại học thực vật. Cũng còn có những biến chủng giống nhau hay khác nhau về nhiều mặt, chịu tác động của những cơ chế cách ly độc đáo, nhưng hiện nay chưa thể tìm gặp được khu phân bố vì thảm rừng đã bị tàn phá nặng nề. Đó cũng là một trong những khó khăn, cần có điều kiện, thời gian và sự kiên trì của những người quan tâm, yêu thích mới có thể giải quyết được.

Giới thiệu về những loài Cymbidium tự nhiên, chúng tôi có hoài bão giúp ích phần nào cho những ai ham thích sưu tập lan rừng. Chúng tôi cố gắng mô tả các đặc điểm phân loại và môi sinh của chúng một cách chính xác nhất trong chừng mực những tài liệu thu thập được cũng như những quan sát thực tế cho phép. Qua đó, chúng tôi hy vọng người trồng lan có thể có thêm tài liệu về phả hệ của các giống lan mình đang trồng, từ đó có những biện pháp kỹ thuật đáp ứng chính xác hơn yêu cầu sinh lý, sinh thái của từng giống nhằm đạt được năng suất hoa cao nhất.

CYMBIDIUM ALOIFOLIUM SWARTZ (LAN LÔ HỘI)

Tên khác: Cym. Simulans Rolfe. ; Cym. Pubescens Lindl.

Được mô tả năm 1979. Có nguồn gốc từ vùng Đông Ấn, Đông Dương, Caylan. Nuôi trồng tại châu Âu năm 1789.

Phụ sinh, giả hành nhỏ, mang nhiều lá dày, dài 30-50 cm, đầu lá chia chia hai thùy không bằng nhau. Cọng phát hoa từ đáy giả hành, thòng, mang từ 10 đến vài chục hoa, kích thước 4-6 cm. Cánh hoa và lá đài thon nhọn, màu nâu đỏ có viền màu vàng sáng. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên nhỏ, thùy giữa dạng bầu dục, nhọn ở đỉnh, màu đỏ thắm. Trục hợp nhụy màu vàng nâu.

Ra hoa tháng 10-12. Phân bố ở vùng nóng dưới 1.000 m. Khó ra hoa ở Đà Lạt hay hoa rất ít. Sống dưới tán rừng dày ven đồi, ưa khô cạn

CYMBIDIUM CYPERIFOLIUM ( THANH LAN ) 

Địa sinh, giả hành nhỏ, từ 1-2 cm. Lá hẹp, dài 50-60 cm, rộng 0,8-1 cm, đầu nhọn. Cọng phát hoa từ gốc giả hành, cao 30-40 cm, đứng, mang 6 đến 8 hoa. Hoa thơm. Hoa lớn 5-6 cm, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ. Lá đài thon, nhọn, dài 2,5-3 cm, xanh nhạt, có sọc nâu. Cánh hoa ôm lấy trục hợp nhụy, màu xanh nhạt, có sọc đậm ở gốc. Cánh môi 3 thùy không rõ, thùy giữa lớn, bầu dục, đầu tà, uốn ra sau, màu trắng xanh điểm chấm đỏ nhạt ở hai bên mép. Trục hợp nhụy màu vàng xanh.

Ra hoa tháng 12-2. Phân bố ở độ cao 1.000 m, dưới tán rừng thưa ven suối, trên đất cát bồi.

CYMBIDIUM DAYANUM REICHB. F ( XÍCH NGỌC )

Có ở Ấn Độ, Malaysia, Philippin, Đông Dương.

Phụ sinh, giả hành bầu dục, mang lá hẹp, nhọn, dài 90-120 cm, rộng 0,7-1 cm. Phát hoa thòng, ngắn hơn lá, mang 10-12 hoa, hoa lớn 7 cm, có lá bắc nhỏ. Lá đài dài 3 cm dạng mũi mác, màu hơi trắng, có vài sọc đỏ tím đậm ở giữa. Cánh hoa hẹp, nhọn, màu trắng, có sọc đỏ tím thường ôm lấy trục hợp nhụy.

Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên đứng, thùy giữa bầu dục, đầu tròn, uốn ra sau, màu vàng với vạch dọc màu tím đậm quanh cánh môi. Trục hợp nhụy màu tím đậm, có lông mịn.

Ra hoa tháng 8-10. Phân bố từ 600-1.500 m trong những tán rừng thưa ven đồi.

CYMBIDIUM DEVONIANUM PAXT. ( GẤM NGŨ HỒ) 

Do Gibson tìm thấy năm 1836 tại Khasia. Còn có ở vùng Sikkim. Nở hoa lần tiên năm 1843 tại Chatsworth.

Phụ sinh, dạng bụi, giả hành nhỏ, lá có cuống, phiến lá dạng mũi mác, dài 15-20 cm, rộng 4-5 cm, đầu lá chia 2 thùy. Cọng phát hoa thòng, dài 25-30 cm, mang 25-30 hoa nhỏ, rộng 2,5-4 cm. Lá đài và cánh hoa dạng mũi mác, đầu hơi tròn, màu xanh có đốm đỏ đậm nhỏ và liền nhau tạo thành sọc dài. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên thấp, tròn, thùy giữa bầu dục, có 2 vệt đỏ đậm, hơi nhọn ở đỉnh, màu hồng hay đỏ thắm, gốc cánh môi và trục hợp nhụy màu vàng xanh.

Ra hoa tháng 2-4. Phân bố ở rừng lạnh và rợp, trên 1.400 m.

CYMBIDIUM EBURNEUM REICHB ( BẠCH LAN )

Do William Griffith tìm thấy năm 1837 ở vùng Khasia. Nở hoa lần đầu năm 1847 tại bộ sưu tập của Loddiges ở vùng Hackney. Còn có ở Nepal, Sikkim, Thái Lan, Đông Dương, tên khác: Cym. Hookerianum.

Dạng phụ sinh, giả hành được che bởi các bẹ lá. Lá hẹp, dài 40-60 cm, rộng 1-1,5 cm, màu xanh sáng, có cuống rất ngắn. Cọng phát hoa thẳng đứng, dài 50-80 cm, mang 2-3 hoa, hoa thơm, lớn khoảng 10 cm. Cánh hoa hẹp hơn lá đài, dạng mũi mác, màu trắng ngà. Cánh môi 3 thùy, thùy giữa dạng bầu dục, màu trắng với vệt vàng ở giữa, trục hợp nhụy màu vàng nhạt. Hoa nở không hoàn toàn.

Ra hoa tháng 9-11. Phân bố từ 1.400 m trở lên, dưới các tán rừng Dẻ ven đồi.

CYMBIDIUM ENSIFOLIUM SWARTZ ( MẶC LAN )

Tên khác: Cym. Sudaicum Schltr.

Địa sinh, bụi dày, giả hành nhỏ, được các bẹ lá che lại. Lá nhiều, dài, nhọn, có 3 gân lồi ở mặt dưới lá. Dài 65-85 cm, rộng 2,5- 3 cm. Phát hoa từ bẹ lá, cao 25-40 cm, mang 6-10 hoa thơm, hoa lớn 4-5 cm. Cánh hoa dạng mũi mác, mỏng nhỏ, màu xanh vàng với nhiều sọc đỏ nâu nằm liền nhau. Lá đài giống cánh hoa. Cánh môi thuôn, 2 thùy bên ngắn, rộng và tròn, có nhiều đốm đỏ nâu. Thùy giữa dạng bầu dục, gợn sóng, có chấm rải rác màu nâu đỏ. Trục hợp nhụy màu trắng vàng, phần bụng có chấm đỏ nâu.

Ra hoa tháng 8-11. Phân bố ở những rừng già, lá lợp ven suối, trên 1400 m.

CYMBIDIUM ERYTHROSTYLUM LINDL. ( BẠCH HỒNG )

Tên khác: Cym. longifolium Don. ; Limodorum angustiflorum Ham.

Phụ sinh, giả hành dẹp, lá dạng dải hẹp, nhọn dài 30-50 cm, rộng 1-2 cm. Cọng phát hoa từ bẹ lá, gần thẳng và cong ở đoạn đầu, cao 25-50 cm, mang 7-8 hoa. Hoa to 7-10 cm. Cánh hoa và lá đài thuôn dài, dạng mũi mác nhọn, màu xanh trắng với sọc màu đỏ thắm. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên đứng, tròn, thùy giữa rộng, dạng bầu dục, màu trắng ngà hay xanh vàng nhạt, có đốm nâu đỏ, trung tâm vàng. Trục hợp nhụy màu xanh vàng, hoa thơm, nở không hoàn toàn.

Ra hoa tháng 7-10. Phân bố gần giống như Bạch Lan.

CYMBIDIUM GIGANTEUM WALL. ( HOÀNG LAN )

Tên khác: Cym. grandifolium Griff; Cym. Hookerianum R.

Do Wallich tìm thấy năm 1821 trong các vùng nhiệt đới ở Hymalaya, cùng cao độ với Nepal, Đông Dương.
Địa sinh hay phụ sinh, giả hành cao 10-15 cm. Lá xanh đậm, dạng gươm, dài 50-90 cm, rộng 2-3 cm, các gân phụ kéo dài 1/2 đến 2/3 lá ( khác với các loài khác).

Phát hoa từ đáy giả hành, gần thẳng, đầu hơi cong dài 60-100 cm, mang 7-12 hoa. Hoa to 6,5-12 cm.
Cánh hoa và lá đài dạng mũi mác nhọn, màu vàng xanh có sọc nâu nhạt, mép uốn lượn, dài 4,5 cm, rộng 1-1,5 cm. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên nhọn, màu vàng nhạt có sọc đỏ nâu, thùy giữa dạng tam giác nhọn, cong, uốn lượn màu vàng nhạt, có vệt đỏ dạng chữ V và vạch đỏ dọc ở giữa. Trục hợp nhụy màu vàng xanh, phần bụng có vết đỏ nhạt. Hoa thơm hay không.

Ra hoa tháng 2-5. Phân bố ở độ cao 1.350 m trở lên, trong vùng rừng ẩm thưa, không rụng lá. Thường sống trên cây lá kim.

CYMBIDIUM INSIGNE ROLFE ( HỒNG LAN )

Có nguồn gốc ở Việt Nam do M. Bronckart thấy năm 1901, được mô tả năm 1904 do Rolfe.M.M. Sander nuôi trồng năm 1905. Ra hoa lần đầu do M.Micholitz lấy từ Việt Nam.

Địa sinh, giả hành to. Lá dẹp, dạng dải, dài 75-90 cm, rộng 1,5-2 cm. Phát hoa thẳng, cao quá 100 cm, mang 10-15 hoa to 12 cm. Cánh hoa và lá đài thon nhọn, mép uốn lượn, dài 4,5 cm, rộng 1,5 cm, trắng hồng với nhiều sọc đậm. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên dài, màu trắng hồng, có nhiều sọc chạy từ gốc ra, thùy giữa bầu dục, đỉnh hơi nhọn, trắng hồng với chấm đỏ nâu ở quanh mép, trung tâm vàng. Trục hợp nhụy trắng hồng.

Ra hoa tháng 2-5. Phân bố ở độ cao 1.500 m, mọc xen lẫn trong cỏ dưới tán rừng thông, ven các nguồn nước hay suối cạn.

CYMBIDIUM LANCIFOLIUM HOOK. F.

Tên khác: Cym. Gibsonii Paxt; Cym. javanicum Hook.f.

Có ở Java, Malaysia, Miến Điện, Trung Hoa, Nhật, Việt Nam...

Địa sinh, giả hành thon, dài 10-15 cm, đường kính 1-2 cm. Lá có cuống tròn, dài 6,5-8 cm, phiến lá to, nhọn, mỏng dài 15-20 cm, rộng 4-5 cm. Cọng phát hoa bên hông giả hành cao 10 cm, mang 3-5 hoa, có lá bắc nhỏ. Cánh hoa và lá đài thon, nhọn, dài 3 cm, rộng 0,5- 0,7 cm, màu xanh vàng, hồng hay trắng ngà, có vạch đỏ nhạt ở giữa. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên hẹp, thùy giữa lớn, dạng bầu dục, đầu tròn và uốn ra sau, màu trắng ngà với các sọc ngang màu đỏ nâu. Trục hợp nhụy màu trắng xanh, mặt bụng có vài chấm đỏ.

Ra hoa tháng 4-5. Phân bố ở độ cao 1.200-1.400 m dưới tán rừng rậm ven suối, trên thảm lá mục và đất cát bồi.

CYMBIDIUM POLANEI GAGN ( TỬ CÁN )

Địa sinh, giả hành nhỏ, đường kính 1,5-2 cm. Lá hẹp, nhọn, dài 40 cm, rộng 0,7-0,8 cm, gân giữa rõ và cứng.

Cọng phát hoa từ đáy giả hành, đứng cao 20-40 cm có đốt màu đỏ tím, mang 6-8 hoa, to 3-3,5 cm, hoa thơm, có lá bắc màu nâu. Lá đài thon dài, nhọn, màu vàng nhạt với nhiều sọc đỏ tím. Cánh hoa thon dài, ôm lấy trục hợp nhụy. Cánh môi 3 thùy, 2 thùy bên màu vàng xanh, thùy giữa uốn ra sau, nhọn, rải rác có đốm đỏ tím ở 2 mép. Trục hợp nhụy màu vàng nâu.

Ra hoa tháng 2-5. Phân bố ở độ cao 1.500 m, dưới tán rừng thưa xen lẫn trong cỏ.

CYMBIDIUM MUNRONIANUM KING ET PLANT

Cây dạng bụi, địa sinh, cao 30-50 cm. Lá dạng dải, nhọn, dài 40-50 cm, rộng 2-2,5 cm. Phát hoa cao 50 cm, thẳng đứng, mang 10-12 hoa. Hoa to 5-6 cm, có lá bắc. Cánh hoa và lá đài dạng mũi mác, màu vàng xanh với nhiều sọc đỏ hồng. lá đài uốn lượn. Cánh hoa ôm lấy trục hợp nhụy. Cánh môi 3 thùy, thùy giữa nhọn và uốn ra sau, màu trắng xanh có đốm đỏ hồng. Trục hợp nhụy xanh nhạt.

Ra hoa tháng 6- 8. Phân bố ở độ cao dưới 1.000 m, trong rừng rợp ven suối.

Trong số Cymbidium tự nhiên có tại Đà Lạt - Lâm Đồng ngoài 12 loài đã biết dưới đây, còn có nhiều biến chủng khác cũng được nuôi trồng nhưng hiện nay chưa có cơ sở để xác định là loài (Species), thứ (Varietas) hay dạng (Forma). Số lượng biến chủng này rất phong phú, trong đó có những cây có giá trị thẩm mỹ cao nhưng chưa được chú ý. Một số biến chủng được biết có thể kể như:

* Trường kiếm, Đoản kiếm, Đoản kiếm lá nhọn, Bích ngọc ...

* Bạch lạp, Bạch ngọc, Bạch gấm ...

* Thanh ngọc, Thanh hồng, Hồng ngọc ...

* Đại kiều, Tiểu kiều, Hắc lan, Bút tiên, Hồng tuyến ...

* Tím luật, Tím Hùng Vương ...

* Hoàng lan như ngọc, Hoàng lan xanh, Hoàng lan vàng ...

* Hoàng lan các loại ...

* Tử vân

* Như ngọc.

Trong các con lai tự nhiên hiện nay chỉ mới xác định được cây Hồng Hoàng là con lai tự nhiên giữa Cym. insigne và Cym. giganteum. Các tài liệu trước đây gọi con lai này là Cym. hybridum. Đến năm 1914, nó được lai để kiểm tra tại Anh, có tên là Cym. Iowa. Năm 1973 Guillaumin đặt tên là Cym X Roseoluteum.
Màu sắc của cây Hồng Hoàng rất đa dạng. Một số dạng được biết đến nhiều như Tím Luật, Tím Hùng Vương, Củ Dền, Bạch Hồng Hoàng, Hồng Hoàng Đặc Biệt ...

Ngoài ra còn có những biến chủng khác như Hoàng Sapa, Lụa Vàng Kampuchia, Uyên Ương, Công Chúa ... nhưng hiện nay chưa kiểm tra được phả hệ.

CÁC BIẾN CHỨNG KHÁC

Biến chủng thuộc nhóm con lai Hồng Hoàng

Biến chủng thuộc nhóm Lan Lô Hội

Đại kiều, Tiểu kiều...

 














  • Mời các bạn thưởng thức

     

    Explore / Khám phá
    Elegant Orchids / Lan tao nhã (sang trọng)


    Cym.Royal Red 'Princess Nobuko'


    Cym.Lamplighter 'Aladdin'


    Ikebana di Lucio Farinelli










Nguồn: dalat.gov.vnẢnh sưu tầm từ net

No comments:

Post a Comment